Tuesday, November 20, 2012

                             Dặn dò

                          Bao giờ tôi chết, xin đừng khóc
                          Để níu chân tôi vướng cõi trần.
                          Xin hãy cười vui giờ vĩnh biệt,
                          Mừng tôi đã thoát nợ gian truân.

                          Bao giờ tôi chết hoa đua nở,
                          Mừng đón tôi về lại cõi tiên.
                          Kiếp đọa nhân sinh vừa trả đủ,
                          Không còn vương vấn nợ trần duyên.

                                                       Tạ Quang Khôi
                                                     (11-2012)
                                                                

Saturday, July 14, 2012

NGẬM NGÙI
                                                       Tạ Quang Khôi
                                                                 

    T
in Vân Quỳnh đã làm mồi cho cá trên biển cả khi vượt biên khiến Hợp bàng hoàng đến tê dại cả tâm hồn. Hy vọng gặp lại người học trò cũ xinh đẹp và thông minh vụt tan biến. Chàng đã chờ đợi tin tức Vân Quỳnh suốt hai chục năm trời. Chàng chưa quên ngày cô đến chào từ biệt để nhận công tác mới ở miền duyên hải xa xôi. Hôm ấy, cô đến tìm chàng với vẻ mặt buồn bã.
“Thầy ạ, cô nói, em được chuyển công tác về công ty hải sản ở Rạch giá. Nếu có dịp thuận tiện, em sẽ vượt biên tìm tự do.”
Hợp vui vẻ khuyến khích :
“Ở ngay Rạch giá thì đi rất dễ . Khi nào sang được Mỹ, chị đừng quên viết thư báo tin mừng cho tôi đấy.”
Cô sốt sắng :
“Điều đó, thầy chả phải dặn. Ngay khi đến được trại tỵ nạn, em sẽ báo cho thầy rõ. Em còn ai để báo tin nữa đâu...Trên đời này, chỉ còn...mình thầy thôi.”
 Hợp nghĩ tới hoàn cảnh gia đình của Vân Quỳnh. Cha mẹ cô đều đã qua đời, mỗi người chết một cách, cùng đáng thương. Khi cô đang học lớp 9, mẹ cô vì ghen, đã tự tử, chết tức tủi. Cha cô là một sĩ quan trong ngành tâm lý chiến, tính tình rất bay bướm, thường tiếp xúc với các nữ văn nghệ sĩ, hết đi chơi thân mật với cô ca sĩ này lại hẹn hò tình tứ với cô kịch sĩ kia. Mẹ cô đã nhiều lần van xin, đánh ghen mà vẫn không ngăn cản được chồng. Cuối cùng bà chọn cái chết. Ông chồng lúc đó mới hối hận. Sau cái chết uất ức của vợ, ông cũng giảm bớt chuyện tình bay bướm để lo săn sóc mấy đứa con. Vân Quỳnh là con út trong gia đình. Cô có hai người anh. Sau cuộc đổi đời năm 1975, cha cô bị tù “cải tạo”, rồi bị chết đói trong một trại tù ở miền thượng du Bắc Việt. Cô nghe một người bạn tù cũ của cha cô kể lại thì ông rất bướng bỉnh, không chịu khuất phục bọn cai tù, nên đã bị chúng biệt giam và bỏ đói. Người anh lớn của cô trước khi được tin bố chết trong trại tù đã tình nguyện vào bộ đội, vì nghe lời dụ dỗ lừa gạt của bọn cộng sản với hy vọng bố sẽ được trả tự do sớm nếu anh chịu nhập ngũ. Anh bị đưa sang chiến đấu bên Cao miên, rồi mất tích ngoài mặt trận. Người anh thứ hai của cô vượt biên, không có tin tức gì, ai cũng nghĩ anh đã chết, nhưng cô vẫn hy vọng có ngày được gặp lại cả hai anh.
Nghe Vân Quỳnh nói thế, Hợp bùi ngùi khuyên :
“Chị phải cẩn thận nhé. Thấy chắc hãy đi.”
Cô cười :
“Vượt biên thì có gì chắc đâu, thầy. Một con thuyền nhỏ giữa biển khơi, chỉ còn biết trông vào may rủi. Đã bị dồn đến nước này thì cũng phải liềù thôi.”
Hợp buồn buồn :
“Liều thì liều, nhưng cũng phải tính toán…”
Bỗng chàng đề nghị :
“Hay chị nán lại một thời gian để cùng đi với bọn tôi...Chính tôi cũng đang tìm đường.”
Ngẫm nghĩ giây lát, Vân Quỳnh lắc đầu :
“Thế nào em cũng phải đi Rạch Giá vì ở đây em thấy cô đơn quá...Có ai đoái hoài tới em đâu.”
Hợp hiểu rằng cô đã ngầm trách mình. Đó là lời trách oan uổng, chàng cũng không muốn đính chính. Cô đã yêu chàng một cách mù quáng khi chàng đã có gia đình.
Hợp là một giáo sư  Sử Địa tại một trường nữ trung học ở Saigon. Chàng có biệt tài giảng về môn sử  học nên được nhiều học sinh ái mộ. Trong các giờ sử của chàng, học sinh có cảm tưởng đang được nghe thầy kể những câu chuyện cổ tích nên say mê theo dõi từ đầu đến cuối. Có nhiều học sinh nghe xong đã thuộc bài. Vân Quỳnh học chàng bốn năm liền, từ lớp 9 đến lớp 12. Sau khi đỗ tú tài phần hai, cô táo bạo tỏ tình với chàng. Khi nghe cô nói cô trót yêu mình từ mấy năm nay, Hợp giật mình và rất ngạc nhiên. Chàng rụt rè hỏi :
“Chắc chị cũng biết tôi đã có gia đình ?”
Cô khẽ thở dài :
“Đó chính là cái ngu, cái khùng của em. Nhưng khi đã yêu, người ta dễ mù quáng, phải không thầy ?”   
Hợp không trả lời thẳng câu hỏi của cô mà chỉ trách nhẹ :
“Chị lãng mạn quá, thật tôi không ngờ !”
“Dạ, chính em cũng không ngờ. Tình yêu đến từ bao giờ em đâu có hay, rồi nó lớn dần lên em cũng không rõ. Bây giờ thì nó hoàn toàn chiếm ngự trái tim em.”
Hợp trố mắt nhìn cô với một vẻ rất ngạc nhiên, rồi nói :
“Chị có giọng điệu của một nhà văn. Không biết chị đã viết văn bao giờ chưa ?”
Cô lắc đầu, cười :
“Em chưa thử, vì em không thích viết văn, làm báo...Nếu em có viết văn, chỉ muốn viết cho một người đọc thôi. Chả biết người đó có thích đọc văn em không ?”
Hợp im lặng vì sợ nói lỡ có thể bị cô coi như một lời hứa hẹn. Hợp là một nhà giáo nghiêm túc, đàng hoàng, có cuộc sống rất mực thước. Chàng không bao giờ nghĩ đến chuyện lừa gạt người vợ mà chàng rất yêu thương. Loan, vợ chàng, không thuộc loại “sắc nước hương trời” hay “chim sa cá lặn”, nhưng duyên dáng và rất hiền lành. Chàng yêu nàng khi nàng còn là một cô nữ sinh nhỏ bé ở một trường trung học tư. Sau mấy năm hẹn hò, chàng cưới nàng khi nàng vừa hoàn tất bậc trung học. Hai người sống với nhau rất thuận hòa và đã có hai đứa con gái xinh đẹp. Loan khéo léo biến căn nhà nhỏ bé của hai người thành một tổ ấm đến nỗi Hợp đi đâu cũng chỉ mong về sớm với gia đình. Chàng không thể rời xa bầu không khí ấm cúng do Loan tạo nên. Khi nghe Vân Quỳnh tỏ tình, chàng chỉ cho là cô quá nông nổi và lãng mạn, chưa chắc đã thực sự yêu thương. Mối tình bồng bột rồi sẽ tan đi như bọt sóng mà thôi, chàng nghĩ. Nhưng mấy năm sau, chàng biết mình đã lầm. Vân Quỳnh từ chối lời tỏ tình hoặc cầu hôn của nhiều chàng trai. Cô vẫn chỉ một mực yêu chàng. Bất cứù chuyện riêng tư nào, cô đều tâm sự với chàng. Đã nhiều lần chàng khuyên cô nên bằng lòng một trong những người đang theo đuổi cô, nhưng cô vẫn làm ngơ. Về phần chàng, muốn ngay thẳng với vợ, chàng đã kể hết cho Loan nghe mối tình bất thường của cô học trò cũ. Mới đầu Loan cũng buồn và lo, nhưng sau thấy chồng không hề có ý dối gạt mình, nàng mới yên tâm. Cách đối sử của nàng với Vân Quỳnh thoạt tiên có vẻ lạnh nhạt, rồi dần dần trở nên thân mật khi nàng biết chắc chồng lúc nào cũng chỉ một mực yêu thương mình. Hôm Vân Quỳnh đến từ biệt để đi nhận công tác ở Rạch Giá, nàng đã giữ cô ở lại ăn cơm tối. Thấy cô còn lưỡng lự, nàng nói :
“Trong thời buổi khó khăn này, chị đi xuống tận Rạch Giá, lại có ý định vượt biên, biết có bao giờ gặp lại chị không ? Cứ coi như đây là bữa cơm tiễn biệt để ghi nhớ ngày xa nhau.”
Lời nói khéo của Loan đã giữ được Vân Quỳnh ở lại tối hôm đó.
Trong ngót nửa năm ở Rạch Giá, Vân Quỳnh viết thư cho vợ chồng Hợp hàng tuần. Cô kể những chuyện trong cơ quan, đường phố, phong cảnh. Cô cũng tả lại những cuộc đi thăm các hòn đảo gần Rạch Giá cùng các bạn trong cơ quan. Đến tháng thứ tư và tháng thứ năm, cô báo hai tin mừng liền về hai người anh của cô. Người anh đi chiến đấu bên Cao miên đã tới được một trại tỵ nạn bên Thái Lan và đã liên lạc được với thân nhân ở Mỹ. Người anh vượt biên đã thoát chết, hiện đang ở Nhật và chờ đi định cư ở một nước bên Âu châu vì đã bị Mỹ từ chối. Cô kể rằng thuyền của người anh chết máy ở giữa biển, dạt vào một hoang đảo. Trên thuyền có hơn năm chục người, kể cả hai chục con nít, đều sống sót, chỉ bị đói khát mất mấy ngày. Sau đó họ được một tầu đánh cá Nhật đưa về Nhật. Tất cả mọi người đang chờ đợi đi định cư ở nước khác và đã được phủ Cao ủy tỵ nạn Liên hiệp quốc giúp đỡ. Hai tin mừng này càng làm Vân Quỳnh hăm hở tìm tự do bằng đường biển. Trong lá thư sau cùng, cô cho biết trong một ngày rất gần, cô sẽ ra khơi và hẹn gặp vợ chồng Hợp ở Mỹ. Ngay sau khi nhận được lá thư đó, Loan bày bàn thờ ra giữa vườn để cầu nguyện cho cô gặp may mắn, sớm đến được bến bờ tự do. Hai vợ chồng mong đợi tin tức cô từng ngày từng giờ, nhưng càng đợi càng biệt vô âm tín. Hơn một năm sau, gia đình Hợp cũng xuống thuyền đi tìm tự do. Họ đã may mắn tới đích an toàn, sau có bốn ngày lênh đênh trên mặt biển.
Rồi cuộc sống ở đất Mỹ có quá nhiều bận rộn khiến vợ chồng Hợp tạm quên đi cô học trò cũ. Khi gia đình Hợp đã đứng vững được ở đất mới, Loan bỗng mắc bệnh nan y, chỉ trong vòng có một thời gian ngắn nàng qua đời. Nàng bị ung thư máu, khi biết được thì đã quá muộn. Trong giây phút hấp hối, nàng nắm lấy tay chồng và khuyên nên cố gắng tìm gặp lại Vân Quỳnh vì nàng biết cô đã yêu Hợp thành thật. Chỉ có cô mới có thể đem hạnh phúc lại cho chàng.
Nhưng vì bỗng mất người vợ yêu chỉ trong một thời gian quá ngắn, Hợp bàng hoàng đau đớn không sao nguôi được, lòng dạ nào mà nghĩ đến chuyện tục huyền. Mãi đến khi các con chàng đi học xa, ở hai tiểu bang khác, chàng mới cảm thấy cô đơn và nghĩ tới cô học trò cũ. Không biết hỏi ai để có tin tức về Vân Quỳnh, chàng đành đăng mấy lời nhắn tin trên nhiều báo Việt ngữ khắp nước Mỹ. Cuối cùng, người anh lớn của cô gọi điện thoại cho chàng. Anh ta không những cho chàng biết tin tức về cô mà cả về chính anh ta và người em trai nữa.
Ghe vượt biên của Vân Quỳnh bị mất tích giữa biển cả. Mới đây anh ta đã về tận Rạch Giá để dò hỏi thì thân nhân những người đi cùng ghe với Vân Quỳnh cũng đều không nhận được tin tức gì. Ai cũng nghĩ rằng tất cả mọi người trên ghe đã chết. Còn chết như thế nào, không ai biết rõ. Nhưng có điều chắc chắn là những ngày ghe ra khơi trời yên biển lặng, không có gió lớn, không mưa bão. Anh ta ở lại Rạch Giá cả tháng trời để tìm tòi, dò la tin tức của em gái mà không có kết quả. Về phần anh, anh đã bị kẹt ở trại tỵ nạn rất lâu, gần năm năm trời, mới được đi định cư ở Mỹ. Anh đã học xong đại học, đã có vợ con và hiện ở một tiểu bang phía Tây Bắc nước Mỹ. Người em trai của anh hiện ở Đức. Anh ta cũng đã có vợ con và có công ăn việc làm vững chắc. Như vậy, trong ba anh em, chỉ một mình Vân Quỳnh là không may.
Nói chuyện với người anh Vân Quỳnh xong, Hợp buồn đến thẫn thờ cả mấy ngày. Chàng không ngờ cô lại chết non yểu như vậy. Sau một nhiều đêm trằn trọc, chàng quyết định đi thăm Rạch Giá để tìm cách từ biệt cô học trò đã nặng tình với mình lúc cô còn sống.
Hợp lẳng lặng thu xếp chuyến về Việt Nam, không báo cho các con biết. Nửa tháng sau, chàng lên đường. Chàng chỉ ghé Saigon có một đêm, rồi thuê xe đi thẳng xuống tỉnh ngay. Tại đây, chàng thuê một chiếc ghe chở thật nhiều hoa ra biển. Chàng rải hoa lên mặt nước và khấn Vân Quỳnh hãy hiểu cho lòng chàng. Lúc cô còn sống, chàng đã có gia đình và không bao giờ có ý định phản bội người vợ chung thủy với chàng. Tuy nhiên lòng chàng rất cảm kích về mối tình của cô.
Rải hoa phúng điếu Vân Quỳnh xong, Hợp ở nán lại Rạch Giá một tuần. Trong thâm tâm, chàng vẫn mong ước có một phép lạ nào đó khiến chàng được gặp lại cô học trò cũ. Nhưng rồi chẳng có phép lạ nào hết, chàng đành ngậm ngùi trở lại Saigon để bay về Mỹ...
                                                                                                                                     TQK

Wednesday, June 6, 2012

Ký giả nằm vùng

            Tôi không biết chắc miền Nam trước 30 tháng 4 1975 có bao nhiêu ký giả nằm vùng cho cộng sản, tôi chỉ nhớ có mấy người. Có người tôi quen thân, cũng có người tôi chỉ gặp một vài lần mà không quen.
            Người tôi quen thân nhất là Nguyễn Ngọc Lương vì Lương cùng làm đài phát thanh Saigon với tôi nhiều năm, lại cùng quê Nam Ðịnh. Lương ở Hải Hậu, tôi ở ngay tỉnh lỵ. Vì tình đồng hương, chúng tôi dễ thân nhau. Hồi mới gặp Lương, tôi không ngờ  ông lại là một cán bộ cộng sản được gài vào Nam theo cuộc di cư năm 1954. Ông có vẻ nhà quê và ít hiểu biết. Vào cuối thập niên 1950, thuốc chữa bệnh lao phổi rất hiệu nghiệm là Streptomycine, thế mà Lương không biết. Khi tôi sang thăm ông bên Thị Nghè, thấy ông gầy và xanh xao. Tôi ngạc nhiên hỏi ông có ốm đau gì không, thì ông cho biết bị lao phổi và đang uống thuốc Bắc. Tôi rất ngạc nhiên về sự kém hiểu biết của ông. Vậy mà cũng là biên tập viên phòng bình luận đài phát thanh Saigon. Tôi liền nói :
            “Trời ơi, sao cậu lại uống thuốc Bắc ? Cậu phải đi bác sĩ hoặc vào nhà thương ngay. Thuốc Bắc làm sao chữa được ho lao.”
            Quả nhiên sau một thời gian nằm bệnh viện Saint Paul, Lương khỏi bệnh. Con người như thế, ai có thể ngờ là một cán bộ cộng sản nằm vùng. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, ông bị công an bắt. Không phải một lần mà nhiều lần. Tôi không hiểu sao công an bắt rồi thả mà không giam giữ luôn trong tù hoặc đưa ra tòa nếu biết chắc ông hoạt động cho cộng sản ? Không những thế, ông tổng giám đốc Nha Vô Tuyến Truyến Thanh còn vào khám thăm Lương. Nhưng rồi ôg không làm đài phát thanh nữa mà ra mở báo riêng, một tờ nguyệt san (tôi quên tên tờ nguyệt san này). Tòa báo ở đường Phạm Ngũ Lão và bút hiệu ông là Nguyễn Nguyên. Như vậy, chính quyền miền Nam quá khoan dung.
            Sau 30 tháng 4 năm 1975, Lương lộ nguyên hình là một cán bộ cộng sản trong lãnh vực báo chí. Ði đâu ông cũng ôm kè kè một chiếc cặp da đầy các bài viết. Ông thường hôi thúc tôi viết cho ông, nhưng không nói rõ sẽ đăng ở báo nào. Một hôm, Ông mở cặp lấy ra hai bài viết của hai tác giả nổi tiếng miền Nam (tôi xin phép được dấu tên hai tác giả này vì một người đã qua đời và một hiện sống ở Úc). Tôi tò mò đọc lướt qua hai bài viết. Cả hai đều bị Lương sửa bằng bút đỏ, như thầy giáo sửa bài luận văn của học trò. Thật ra, tôi cũng chưa bao giờ sửa bài học trò quá đáng như vậy. Tôi rất ngạc nhiên về sự sửa chữa ấy. Dù sao họ cũng là những tác giả đã nổi tiếng trước 1975.
            Sau nhiều lần bị Lương hối thúc, tôi đành viết một truyện ngắn, tên là “Tiếng Hát Trương Chi” với mục đích bênh vực các nhà văn miền Nam cũ, cho rằng họ là những người có tài, nhưng bị chế độ mới ruồng rẫy, ghét bỏ. Khi tôi viết xong, tìm Lương thì không thấy ông đâu. Có người cho biết lúc đó ông  phải về quê Hải Hậu, Nam Ðịnh, để xác nhận lại đảng tịch và cấp bậc thượng tá. Khi tôi đưa các con tôi vượt biên thì ông vẫn chưa trở lại Saigon.
            Sau khi được định cư ở Mỹ, tôi lại liên lạc được với Lương qua những lá thư gửi bưu điện. Tôi biết tin ông không còn được đảng và nhà nước cộng sản trọng dụng nữa. Ông phải viết cho báo Tiếp Thị để tạm sống qua ngày. Mỗi lần về Nam Ðịnh thế nào ông cũng ghé thăm ông anh rể và bà chị ruột tôi. Bây giờ thì cả ba người đều không còn nữa. Trong môt bức thư khác ông cho biết vợ ông đã bỏ ông. Bà là em gái ông Ngô Vân, chủ nhiệm nhật báo Tia Sáng ở Hà Nội trước năm 1954. Bà làm cho sở Mỹ, đáng lẽ được Mỹ bốc ra khỏi Việt Nam trước ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nhưng vì chồng bà là cán bộ cộng sản nên bà bị bỏ rơi.
            Lương qua đời vì bệnh ung thư.
            Người thứ hai mang tiếng nằm vùng hay thân cộng là Vũ Hạnh. Tôi quen Vũ Hạnh từ hồi cùng làm báo Ngày Nay của nhà văn Nguyễn Họat tức Hiếu Chân, Rồi sau đó lại cùng dạy ở một trường tư. Vũ Hạnh tên thật là Nguyễn Ðức Dũng, người Ðà Nẵng (hay Hội An ?). Theo ông Vũ Ký, một giáo sư của trường Pétrus Ký, cũng là một nhà văn, cùng quê với Vũ Hạnh, thì Hạnh đã bị chính quyền tỉnh Ðà Nẵng (hay Hội An ?) nọc ra giữa sân tòa tỉnh trưởng để đánh đòn về tội thân cộng, rồi thả ra mà không bắt giam. Quả thật tôi không biết chuyện này thực hư ra sao nhưng thắc mắc nếu đã biết Hạnh là cộng sản nằm vùng mà không bắt giam, chỉ đánh đòn thôi ? Không lẽ chính quyền miền Nam chống cộng một cách…ngây thơ như vậy ?
            Dù nhiều người không ưa Vũ Hạnh, nhưng ai cũng phải công nhận ông viết văn hay. Nhiều lần ông đề nghị ông và tôi xuất bản một tờ báo lấy tên là “Ði Về Hướng Mặt Trời”. Tôi đứng tên chủ nhiệm, ông chủ bút. Tôi hiểu thâm ý của ông nên cương quyết từ chối.
            Sau khi cộng sản chiếm miền Nam, chính quyền cộng sản tổ chức một buổi họp mặt các văn nghệ sĩ Saigon ở tòa đại sứ cũ của Ðại Hàn, Hạnh và mấy cán bộ nàm vùng, như Thái Bạch, Nguyễn Ngọc Lương đều đeo súng lục bên hông. Thi sĩ Hoàng Anh Tuấn nửa đùa nửa thật nói với Hạnh :”Anh em văn nghệ sĩ chỉ quen dùng bút, chư có biết chơi súng đau.” Hạnh lườm xéo Tuấn một cái rồi bỏ đi.
Nhưng mấy tháng sau đó, tôi tình cờ gặp Hạnh ở giữa đường. Tôi chưa kịp hỏi thăm, ông đã lắc đầu nói nhỏ :”Totalement decu !” (hoàn toàn thất vọng). Tôi không dám có ý kiến gì vì khi ở với cộng sản, ta không thể tin bất cứ ai trừ những người thân trong gia đình. Ít lâu sau, một người bạn giầu có của tôi cho biết anh cộng tác với Vũ hạnh để mở một gánh hát cải lương. Tôi không quan tâm mấy nên không hỏi thêm điều gì, vì lúc đó vợ tôi đang ốm nặng. Dường như gánh hát thất bại nên tôi lại nghe tin Hạnh lập xưởng làm xà bông. Tất nhiên cũng phải có người bỏ vốn. Tôi thắc mắc tại sao Hạnh thân cộng, nằm vùng mà sau khi chiếm được miền Nam cộng sản không dùng Hạnh khiến ông long đong phải làm hết việc này đén việc khác để kiếm sống ? Bẵng đi một thời gian khá lâu, khi tôi đang tìm đường vượt biên, một hôm tôi tình cờ gặp Trần Phong Giao ở nhà bưu điện Saigon. Giao là chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ nguyệt san Văn trước năm 1975. Giao và tôi ngoài tình bạn văn nghệ còn có tình đồng hương nữa. Chúng tôi cùng sinh trưởng ở Nam Ðịnh. Vì lâu không gặp nhau, chúng tôi ngồi ngay xuống bậc thềm nhà bưu điện để nói chuyện. Chúng tôi nói đủ thứ chuyện, cuối cùng, tôi thì thầm cho Giao biết tôi đang tìm đường vượt biên. Ông liền hỏi tôi có biết Vũ Hạnh cũng đang tìm đường vượt biên không ? Tôi ngạc nhiên hỏi :
”Nó mà cũng vượt biên ?”
Giao lắc đầu và cho biết Hạnh tìm đường cho các con Hạnh thôi. Rồi Giao cười, nửa đùa nửa thật :
“Thằng ấy mà ra khỏi nước thế nào cũng bị người ta quẳng xuống biển.”
Rồi Giao nói thêm :
“Ngay cả việc giới thiệu cho con nó đi thôi cũng không dám, lỡ nó tố cáo với công an tổ chức vượt biên thì mệt lắm.”
Có một điều rất ngạc nhiên là từ khi ra khỏi nước, sống ở hải ngoại, tôi không hề nghe ai nhắc tới Vũ Hạnh nữa, kể cả những bạn văn nghệ còn sống ở Việt Nam. Cho đến nay tôi không hiểu Hạnh còn sống hay đã chết ?
Nhà văn thứ ba bị coi là nằm vùng cho cộng sản là Ngọc Linh. Khi viết truyện cho nhật báo Hồa Bình, cứ hai ba hôm tôi lại phải ghé tòa báo để đưa bài. Lần nào tôi cũng gặp Ngọc Linh. Ông làm thường trực trong ban biên tập, đồng thời viết cả truyện dài cho báo. Ông là một nhà văn có nhiều độc giả hâm mộ. Ông có truyện đã được đưa lên sân khấu cải lương và quay thành phim, như truyện “Ðôi Mắt Người Xưa”. Một hôm tôi ghé tòa soạn Chính Luận để đưa bài, một nhân viên tòa soạn hỏi tôi có biết Ngọc  Linh là cộng sản nằm vùng không ? Tôi hơi ngạc nhiên vì quả thật tôi không bao giờ nghĩ rằng Ngọc Linh lại có thể là một cán bộ cộng sản. Ông có một cuộc sống rất sung túc và rất…tiểu tư sản. Ông đi xe hơi Nhật mới toanh, là chủ một phòng tập dưỡng sinh (không rõ là Tai chi hay Yoga ?) Truyện ông viết rất ướt át đày tình cảm. Ông biết rõ lập trường chống cộng của tôi mà vẫn thân mật với tôi. Ông đã giới thiệu nhà xuất bản in sách của tôi.
Rồi chỉ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông mới tỏ ra thân cộng.  Ông tích cực họat động cho hội Văn Nghệ Sĩ cộng sản. Một hôm, tôi tình cờ gặp ông giữa đường, lúc đó ông không còn lái xe hơi nữa mà đi xe đạp, tôi vui vẻ chào ông mà ông ngoảnh mặt làm ngơ như chưa từng biết tôi là ai. Tôi hơi ngạc nhiên nhưng hiểu ra ngay. Tôi không buồn mà cũng chẳng giận ông. Ít lâu sau thì nghe tin ông bị tai biến mạch máu não và qua đời.
Trong giới văn nghệ Saigon, người ta cũng đồn nhà văn Sơn Nam nằm vùng. Tôi không thân với Sơn Nam, chỉ thỉnh thoảng gặp nhau ở tòa báo Chính Luận khi cung đến đưa bài. Chúng tôi lạnh nhạt chào nhau một cách xã giao. Sau khi cộng sản chiếm miền Nam, tôi thấy ông cũng không có gì thay đổi.
Người cuối cùng nằm vùng trong làng báo Saigon mà tôi biết là Thái Bạch. Tôi chỉ gặp Thái Bạch có hai lần. Lần thứ nhất ở tòa báo Tự do vào năm 1955, rồi ông mất tích luôn. Sau 30 tháng 4 năm 1975, trong buổi họp các văn nghệ sĩ Saigon ở tòa đại sứ Ðại Hàn cũ, ông xuất hiện và có đeo súng lục bên hông với vẻ mặt vênh váo.
Tổng số những nhà văn nhà báo nằm vùng cho cộng sản hay thân cộng, tôi chỉ biết có thế thôi. Nhưng tôi thắc mắc về hai chữ “nằm vùng”. Theo tôi hiểu thì “nằm vùng” là có hoạt động cho cộng sản, chống lại chính quyền quốc gia miền Nam. Ngay cả Nguyễn Ngọc Lương là người được cộng sản gài theo dân Bắc di cư vào Nam và có cấp bậc thượng tá và là đảng viên đảng cộng sản, tôi cũng không thấy có hoạt động gì có lợi cho cộng sản. Không những thế, ông còn làm trong phòng bình luận của đài phát thanh Saigon. Nhân viên của phòng này có nhiệm vụ viết những bài ca tụng hoặc giải thích mọi việc làm của chính phủ. Một biên tập viên của chính phòng đó một hôm nói đùa với tôi rằng họ làm công việc “mẹ hát con khen hay”. Lương cũng phải viết những bài theo lập trường đó, không thể viết ngược lại được. Người ta chỉ biết ông là cộng sản khi ông bị công an Saigon bắt mấy lần.
Ðối với những người “nằm vùng” hay thân cộng, tôi không được đọc một bài viết chống chính phủ quốc gia hay ca tụng cộng sản nào. Như vậy, có thật họ nằm vùng hay chỉ ngấm ngầm thân cộng thôi ? Nếu chỉ là thân cộng hay có cảm tình với cộng sản thì tôi dám nói rằng trước 30 tháng 4 năm 1975, đa số người Nam có cảm tình với cộng sản vì nhiều gia đình có thân nhân tập kết ra Bắc. Rồi chỉ sau khi cộng sản Bắc Việt chiếm miền Nam và giải tán Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam họ mới vỡ mộng.  Vào cuối năm 1975, một hôm nhà văn Phan Nghị đến thăm tôi. Khi tôi ra mở cửa, ông toe toét cười nói oang oang :
“Mày biết không ? Bây giờ miền Nam hết người mù rồi.”
Tôi chưa hiểu ý ông định nói gì thì ông đã tiếp :
“Chúng nó sáng mắt rồi, mày ạ.”                                                     
                                     
                                                                                                      TQK (6-2012)     

Friday, May 18, 2012

         Nhật báo Ngôn Luận và tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong.
                                              
                                           Tạ Quang Khôi

K
hi báo Tự Do của nhóm người Bắc di cư đfnh bản, tôi không thất nghiệp  vì được ông Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng mời viết cho Ngôn Luận ngay. Ông Hồ Anh cũng mời cả thi sĩ Ðinh Hùng viết truyện dài dã sử “Ngưòi Ðao Phủ Thành Ðại La”.  Ông Hoàng Hải Thủy viết truyện “Chiếc Hôn Tử Biệt”. Tôi không nhớ truyện đầu tiên tôi viết cho Ngôn Luận là truyện gì, chỉ nhớ truyện cuối cùng là “Thầm Lặng”, một truyện tình cảm rất ướt át. Sau đó, tôi tạm thời từ giã làng văn làng báo Saigon để hành nghề gõ đầu trẻ.
Năm 1956, ông Hồ Anh xuất bản tờ tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, ông Hoàng Hải Thủy và tôi cũng đóng góp bài cho tờ báo mới ra lò này. Ông Hoàng Hải Thủy viết phóng sự về “Vũ Nữ Saigon”.  Còn tôi thi một truyện dài tình cảm tên là “Mưa Gió Miền Nam”.  Ðôc giả có nhận xét là cả hai chúng tôi cùng viết về vũ nữ. Tôi không hiểu ông Hoàng Hải Thủy có kinh nghiệm gì về vũ nữ không, riêng tôi, tôi không biết nhảy đầm. Cho đến nay tôi vẫn chưa hề học nhảy bao giờ.
Truyện “Mưa Gió Miền Nam” được in thành sách sau này và nó đã trở thành một lưỡi dao oan nghiệt cắt đứt nghề giáo mác của tôi. “Mưa Gió Miền Nam” là chuyện một cặp vợ chồng trẻ chạy trốn cộng sản, từ Hà Nội di cư vào Saigon. Người chồng bị thất nghiệp, tìm không ra việc làm. Khi tình trạng hoàn toàn bế tắc, tiền bạc bắt đầu thiếu hụt, cô vợ xinh đẹp nghe lời khuyên của một người bạn gái, miễn cưỡng bước chân vào nghề vũ nữ. Rồi từ đó sa ngã vào con đường trụy lạc, bỏ chồng. Sau 30 tháng 4 năm 1975, một cán bộ cộng sản tiếp thu Thanh Tra đoàn bộ Giáo Dục, nơi tôi đang làm việc, tình cờ đọc truyện này, thấy tôi có tinh thần chống cộng tích cực bèn đuổi tôi ra khỏi ngành giáo dục, gửi về cho địa phương quản lý. Ngay tức thì, ủy ban nhân dân phường tôi cư ngụ đuổi gia đình tôi đi kinh tế mới vì tôi thất nghiệp. Nhưng rất may, vào dịp đó, mấy ông thương gia trong phường cũng bị thất nghiệp vì tiệm buôn của họ phải đóng cửa và họ cũng bị “bong ma” kinh tế mới đe dọa trầm trọng. Họ bèn họp nhau để thành lập một tổ làm mì sợi. Tôi được mời gia nhập và góp vốn. Tất nhiên tôi nắm ngay lấy dịp may này. Nhưng tôi làm gì có tiền để đóng góp, phải hỏi vay ông anh rể và bà chị ruột.  Nhưng hai người thương vợ chồng tôi và lũ cháu nhỏ nheo nhóc, không cho vay mà tặng luôn. Thế là tôi thoát cái nạn kinh tế mới.
Trong thời gian viêt cho Ngôn Luận và Văn Nghệ Tiền Phong, tôi đã quen biết nhiều người trong tòa soạn mà chúng tôi giao du rất lâu, có người cho đến ngày nay vẫn liên lạc.
Người đầu tiên cần nhắc đến là ông chủ nhiệm Hồ Anh.  Ông tên thật là Lê Văn Bình, gốc là một huấn luyện viên thể dục thể thao, tốt nghiệp trường đào tạo ở Phan Thiết thời Pháp thuộc. Khi ở Ðà Lạt ông đã đổi thành họ Nguyễn, Nguyên Thanh Hoàng. Theo lời ông, bút hiêu Hồ Anh là do cụ Á Nam Trần Tuấn Khải đặt. Cụ tách tên Hoàng thành Hồ Anh. Ðáng lẽ phải là Hồ Ang, nhưng Ang vô nghĩa, đổi sang Anh. Khi còn nghèo, ông di chuyển bằng một chiéc xe Lambretta trơ cả máy mà ngươi ta gọi đùa là Lambretta cởi truồng.
Nhật báo Ngôn Luận thoạt tiên do tiền của phủ tổng thống nên chỉ phổ biến và tuyên truyền cho nhà nước. Giám đốc chính trị của tờ báo là ông Hà Ðức Minh, một người có nhiều lien hệ mật thiết với phủ tổng thống. Sau này, khi tờ báo có nhiều độc giả (vì nhật báo Tự Do đóng cửa) và đứng vững, ông Hồ Anh không lệ thuộc vào phủ tổng thống nữa và ông Hà Ðức Minh cũng rời khỏi tờ báo.
Thư ký tòa soạn đầu tiên của tờ báo tôi không biết là ai, khi tôi bắt đầu cộng tác thì ông Từ Chung, mới từ Thụy Sĩ về, đảm nhiệm chức vụ này. Trong một dịp ngồi tán gẫu trong tòa soạn, ông Hồ Anh khoe đã bỏ tiền cho ông Từ Chung đi du học. Chuyện  thực hư ra sao chỉ hai ông biết mà thôi.
Tòa soạn báo Ngôn Luận gồm có Thái Linh, Vân Sơn, Thanh Thương Hoàng, Phan Nghị, Hồng Dương, họa sĩ Văn Ðạt…Tôi không biết Thái Linh tên thật là gì, chỉ biết ông hồi còn ở ngoài Bắc là một đảng viên Duy Dân nên mới lấy chữ Thái đứng đầu. Vào Nam ông lấy họ Phạm, Phạm Văn Linh, bút hiệu là Thái Linh. Ông cho biết ông đã theo lãnh tụ Duy Dân Lý Ðông A lên chiến khu Nga My, gần Nho Quan, thuộc Ninh Bình. Khi Nga My bị Việt Minh tấn công, ông bỏ chạy về Hà Nội. Thái Linh được coi là một trụ cột của báo Ngôn Luận. Khi có những vấn đề quan trọng, ông Hồ Anh đều giao cho ông giải quyết.
Phan Nghị là một phóng viên có uy tín trong làng báo. Ông viết nhiều bài phóng sự rất hay. Nhưng ông lại là người chân thật, cả tin, bạn bè liệt ông vào loại “phổi bò”. Khi ông Nguyễn Chánh Thi làm đảo chính, Phan Nghị đến building Cửu Long ở đường Hai Bà Trưng để chơi bài với một nhóm văn nghệ sĩ, như : Thanh Nam, Thái Thủy, Hoàng Thư…rồi khi ra về, nghe đồn ông Diệm đã đầu hàng, bèn viết tin có tựa đề “Quân ta đại thắng, Diệm đầu hàng”, được để lên tám cột trang nhất của tờ Ngôn Luận. Báo đã in được 6000 tờ thì lại có tin tướng Trần Thiện Khiêm đem sư đoàn 7 từ Mỹ Tho về cứu giá. Thế là 6000 tờ báo phải hủy tức khắc.
Vân Sơn, với bút hiệu Thùy Hương, chuyên viết những bài về phụ nữ. Ông là ngươi hiền lành, chân chỉ hạt bột, không có gì xuất sắc.
Hai ông Hồng Dương và Thanh Thương Hoàng đều là phóng viên chạy ngoài.
Ông Ðạm Phong là phóng viên thể thao, nhưng cũng có khi làm phóng sự đặc biệt. Ông nổi tiếng về loạt bài “Con Ma Vú Dài” ở Cà Mau. Khi sang Mỹ, Ðạm Phong định cư ở tiểu bang Texas. Ông đã táo bạo vạch trần mánh khóe lừa bịp của Mặt Trạn Hoàng Cơ Minh nên đã bị ám sát chết. Nhưng thật ra, người ta không biết chắc ai là thủ phạm vụ án mạng này.
Ông Hồng Dương tên thật là Nguyễn Hữu Hùng, được tiếng đẹp trai nhất làng
báo, một thời là chông của nữ danh ca Lệ Thu.
ÔngThanh Thương Hoàng đươc cả làng báo mang ơn. Ông là người sáng lập Hôi Ký Giả Việt Nam và vay tiền ngân hang để xây dựng làng báo chí gần Thủ Ðức. Hầu như tất cả những người làm báo hay dính líu đến nghề báo thời đó, cả Nam lẫn Bắc, đều được một căn nhà trong làng báo chí. Sau này, khi chúng tôi gặp lại nhau ở Mỹ, ông Thanh Thương Hoàng cho biết đa số người mua nhà trong làng báo chí không trả tiền.
Ông Thầy Gòn, tức Tử Vi Lang, hàng ngày viết chuyện phiếm cho báo. Ông dịch lại Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa để đăng từng kỳ trên báo. Nhiều người cho rằng bản dịch của ông đầy đủ hơn bản dịch của cụ Phan Kế Bính ngày xưa. Ông tên thật là Nguyễn Văn Ðính, người Thanh Hóa.
Hàng ngày, báo Ngôn Luận có tranh vui cười “Bé Ngôn, bé Luận” do họa sĩ Văn Ðạt vẽ. Ðộc giả nhi đồng rất hâm mộ lọai tranh này.
Khi ông Hồ Anh xuất bản tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, tôi cũng viết một truyện dài (như đã nói ở trên). Một hôm, tòa báo nhận được thư độc giả than phiền người phụ trách mục giải đáp tâm tình đã khuyên đôc giả ly dị. Hồi đó, vào những năm giữa thập niên 1950, dù chưa có luật Gia Ðình của bà Ngô Ðình Nhu, chuyện ly dị ở Việt Nam cũng ít xảy ra, nên độc giả mới coi là chuyện quan trọng. Ông Hồ Anh muốn đổi người khác phụ trách mục này. Trong lúc cấp thời chưa tìm ra ngươi thay thế, ông đề nghị tôi tạm giữ vài kỳ. Vì nể ông, tôi đành nhận lời và lấy bút hiệu là Diễm Hồng, tên một cô bạn học lớp đệ Nhất Chu Văn An, Hà Nội. Ông Tử Vi Lang chê cái tên hiền lành quá, sợ không “ăn khứa”. Ông đề nghị thêm chữ Kiều. Thế là tên Kiều Diễm Hồng ra đời. Nhưng tôi chỉ giữ mục này có vài kỳ rồi trao cho ngươi khác. Tên Kiều Diễm Hồng được ông Thái Linh đưa sang cả báo Chính Luận sau này trong trang Mai Bê Bi.
Sau cuộc đảo chính giết hai anh em ông Diệm, làng báo Việt Nam có thay đổi lớn. Một hôm, tôi đến báo Ngôn Luận để đưa bài, thấy nhiều người vây quanh ông quản lý Nguyễn Như Cương với vẻ mặt lo lắng. Tôi tò mò ghé lại nghe lóm. Ông Cương cho biết bộ Thông Tin dọa đóng cửa 23 tờ báo nếu không nhận được hối lộ 400 ngàn cho một tờ báo. Số tiên cũng không lớn đối với báo Ngôn Luận. Nhưng ông quản lý không dám một mình quyết định. Trong khi đó, ông chủ nhiệm đi chơi Vũng Tàu với bạn gái, lại không cho biết nơi tạm trú, nên không sao liên lạc được. Kết quả là Ngôn Luận bị…”fermé boutique”. Khi ông chủ nhiệm đi chơi về thì mọi chuyện đã xong.
Vào dịp đó, ông Ðặng Văn Sung, mới đắc cử thượng nghị sĩ, xuất bản tờ nhật báo Chính Luận. Ông liền mời cả tòa soạn của Ngôn Luận cộng tác. Mới thất nghiệp lại có việc làm ngay, ai mà từ chôi cho được. Thế là cả tòa soạn Ngôn Luận biến thành tòa soạn Chính Luận. Ông Từ Chung vẫn là thư ký tòa soạn. Ðể tăng cường cho tờ báo mới ra lò, ông Thái Linh đề nghị tôi giũ trang Văn Nghệ. Tôi nhận lời, nhưng chưa thực sự làm việc thì ông Hồ Anh lại yêu cầu tôi cộng tác với ông trong tờ báo mới, đó là tờ Thời Thế. Tôi làm phụ tá cho chủ bút là nhà văn Lê Xuyên, tác giả cuốn tiểu thuyết rất nổi tiếng “Chú Tư Cầu”. Ngoài ra, tôi còn phụ trách trang học sinh. Ông Lê Xuyên là người Nam, có một thời hoạt động cách mạng, theo đảng Ðại Việt, nên đã từng ra Bắc và lấy vợ Bắc. Ông hiền lành, dễ tính, nói năng từ tôn, khác hẳn các nhân vật nóng bỏng trong các truyện của ông. Sau năm 1975, khi tôi đã sang Mỹ, nghe tin ông phải bán thuốc lá ở một góc đường Khổng Tử trong Chợ Lớn để tạm sống cho qua ngày. Cách đây khoảng 7 hay 8 năm, bạn hữu ở Saigon báo tin ông đã từ trần.
Tờ báo Thời Thế của ông Hồ Anh không cạnh tranh nổi với báo Chính Luận nên rồi cũng phải dẹp tiệm. Khi ông Từ Chung bị cộng sản ám sát ở ngay gần nhà, trong vùng trường đua Phú Thọ, ông Hồ Anh có vẻ hả hê, nói với tôi :”Kẻ bội bạc đã bị trừng phạt. Ðúng là trời có mắt !”
Nhưng dù không có Từ Chung, báo Chính Luận vẫn bán chạy như tôm tươi. Người thay thế ông trong chức vụ thư ký tòa soạn là ông Nguyễn Thái Lân.
Cái duyên văn nghệ giữa ông Hồ Anh với tôi không chấm dút ngay với tờ Thời Thế.  Khi tôi sang Mỹ, ở Sacramento (CA), ông Hồ Anh đã từ Virginia bay sang gặp tôi để mời tôi làm cho báo Văn Nghệ Tiền Phong.  Tôi đang ăn welfare, theo chương trình AFDC, coi như cuộc sống tạm ổn, nhưng tôi là người thích tự lập, nên nhận lời ông ngay. Thế là tôi lếch thếch đưa các con sang Virginia. Truyện đầu tiên tôi trình diện với độc giả Việt Nam ở Mỹ là truyện giả tưởng “Kiếp Chó”. Trong truyện này, Hồ Chí Minh đầu thai thành một con chó, chỉ thích ăn phân người, gọi là “bít tết đồng”. Khi truyện mới đăng được mấy kỳ, phản ứng của độc giả chia làm hai phe. Một phe rất tán thành, một phe cực lực phản đối. Không cần giải thích, ai cũng biết hai phe đó là những ai. Hồi đó, vì còn nhiều thân nhân kẹt lại Việt Nam, tôi không dám để tên thật trong truyện này mà phải lấy một bút hiệu khác.
 Nhưng tôi mới làm cho Văn Nghệ Tiền Phong có 3 tháng rưỡi thì ông chủ nhiệm nghe lời ông Lê Triết đuổi tôi. Lý do là tôi không chịu viết bài đả kích Mặt Trận Hoàng Cơ Minh. Khi ông Hồ Anh đề nghị tôi viết lọai bài này, tôi đã cho ông biết tôi không nên viết thêm khi tờ báo chỉ có 100 trang, kể cả bìa, mà bên trong đã có tới 6 bài đả kích Mặt Trận bịp, độc giả sẽ ngán đến cổ. Ông Lê Triết nghi tôi nằm vùng cho Mặt Trận nên xúi ông Hồ Anh đuổi tôi..
Thật ra, khi tôi mới đên San José, một nhân viên của Mặt Trận (nay cũng đang ở Virginia) đã gặp tôi ngay và đê nghị tôi cộng tác với báo Kháng Chiến của Mặt Trận. Ông ta đưa tôi đến thăm tòa báo, rồi muốn giữ tôi ở lại ngay đó để làm việc. Tôi cho biết tôi có ba con nhỏ đi cùng, không thể bỏ rơi chúng được, phải cho tôi có thời gian thu xếp. Buổi tối hôm đó, về nhà, tôi gọi điện thọai cho một người bạn cũ ở Nam Cali. Ông nguyên là nhân viên thân tín của bác sĩ Trần Kim Tuyến. Ông khuyên tôi nên dọn ngay đi nơi khác, đừng ở San José nữa để tránh xa Mặt Trận vì họ chỉ là bọn bịp bợm thôi. Tôi vội đem các con tôi lên Sacramento…tỵ nạn lần thứ hai.
Sau khi bị đuổi ra khỏi tòa báo, một mặt tôi xin trợ cấp trở lại một mặt tôi kiếm việc để làm. Nhưng, một hôm, sau khi tôi bị đuổi ra khỏi tòa báo khoảng nửa tháng, ông Hồ Anh gọi phone xin lỗi và mời tôi trở lại làm việc. Dù biết ông là kẻ “lá mặt lá trái” nhưng chưa kiếm được việc làm, tôi cũng đành nghe lời ông. Tôi phụ trách đọc thư và trả lời thư độc giả, đọc và chọn lựa bài độc giả gửi về. Vào dịp này, tòa soạn đươc tăng cường bằng một nhà văn từ xa tới. Ông Sơn Tùng, cư ngụ ở Nam Cali, thường gửi truyện ngắn và bài phiếm luận cho báo. Ông Hồ Anh rất thích lối viết của ông Sơn Tùng nên đã viết thư mời sang Virginia. Ông mua vé máy bay cho ông Sơn Tùng và cho ông tạm thời ở ngay trong tòa báo. Ông được phong là phụ tá chủ bút..
Khi ông Sơn Tùng bắt đầu làm việc, ông Hồ Anh xuất bản thêm tờ Tiểu Thuyết Nguyệt San. Tôi vừa làm thư ký tòa soạn vừa phải lay out tờ báo này. Ông Hồ Anh là người lý tài, keo kiệt, nên rất khó khăn về tiền bạc với nhân viên. Làm cho Văn Nghệt Tiền Phong lương đã thấp lại không có bảo hiểm sức khỏe. Vì thế, tôi vẫn ngấm ngầm tìm việc khác. Khi tờ Tiểu Thuyết Nguyệt San ra số 11, tôi được một hội thiện của Mỹ ở Washington DC gọi đi làm. Tuy lương thấp, vì tôi chỉ là một clerk (nửa thư ký nửa tùy phái) nhưng có đầy đủ bảo hiểm sức khỏe (cho cả các con nhỏ của tôi). Thật ra, lương sở Mỹ tuy thấp nhưng cũng gấp hai lương Văn Nghệ Tiền Phong  Tôi làm cho sở này đến ngày về hưu. Ngưòi thay tôi để lo tờ Tiểu Thuyết Nguyệt San là thi sĩ Hoàng Anh Tuấn. Tôi không hiểu báo ra thêm được mấy số thì phải đình bản.
Ông Sơn Tùng cũng chỉ làm cho Văn Nghệ Tiền Phong có một thời gian ngắn,  rồi cũng bỏ việc. Tôi không rõ ông và ông Hồ Anh có chuyện lủng củng gì,.     ,   .
Vào một ngày cuối tháng 9 năm 1990, ông Sơn Tùng gọi điện thoại báo tin cả hai vợ chồng ông Lê Triết đã bị bắn chết ngay trươc cửa nhà khi sửa soạn xuống xe hơi.  Ngưòi ta nghi thủ phạm là người của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, nhưng cảnh sát Mỹ không chịu điều tra đến nơi đến chốn nên không biết chắc.
Vụ ám sát này khiến người ta nhớ lại một vụ ám sát khác, nạn nhân cũng là một nhân viên tòa báo Văn Nghệ Tiền Phong. Có lời đồn rằng ông Ðỗ Trọng Nhân được Mặt Trận Hoàng Cơ Minh gài vào tòa báo để nằm vùng. Nhưng ông không làm tròn nhiệm vụ nên bị trừng phạt. Ông Nhân nguyên là một cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, khả năng về nghề làm báo của ông thấp kém, không viết lách được, chỉ có thể làm việc thủ công, cắt xén và xếp đặt lại các bài trươc khi đem in. Ngưòi như vậy thì làm sao có thể thay đổi lập trương của tờ báo được. Vì thế, người ta cho rằng ông Nhân bị giết oan..

                                                                                        Tạ Quang Khôi
                                                                                (3 – 2012)

Saturday, April 21, 2012

Tôi làm báo


 
                                                                Nhật báo Tự Do

            Cuối tháng 8 năm 1954, tôi theo gia đình bà chị ruột di cư vào Nam, trong khi bố mẹ tôi còn ở lại Nam Ðịnh. Vào đến Saigon, tôi phải tìm cách sống tự lập ngay. Một số bạn học cũ ở Chu Văn An Hà Nội rủ tôi xuống Tây Ninh dạy học cho một trường trung học của Cao Ðài. Tôi đang phân vân vì không muốn xa Saigon thì một nhóm nhà văn miền Bắc cũng mới di cư họp nhau xuất bản tờ nhật báo Tự Do. Ðể việc in báo được độc lập, họ mua một máy in riêng đặt ngay trong tòa báo.
Nhóm chủ trương tờ Tự Do mới đầu gồm có : Tam Lang, Mặc Ðỗ, Mặc Thu, Như Phong, Ðinh Hùng và Vũ Khắc Khoan. Ông Tam Lang đứng tên chủ nhiệm, ông Mặc Thu làm quản lý và ông Như Phong làm thư ký tòa soạn. Khi bắt đầu có nhà in, họ cần một thư ký và tôi được mướn. Lương tháng là 1,500 đồng. Có việc làm ở ngay Saigon là tôi mừng rồi, bất chấp lương cao thấp. Ngoài công việc nhà in, tôi vẫn giúp thầy cò (correcteur) sửa bản vỗ của thợ xếp chữ. Nhờ thế, tôi liên lạc thân mật với các nhân viên tòa soạn.
Báo được dân Bắc di cư ủng hộ nhiệt liệt nên số phát hành tăng nhanh mỗi ngày. Thế là nhóm chủ trương quyết định ra thêm một tờ tuần báo lấy tên là Văn Nghệ Tự Do.
Các bài đăng trong tờ nhật báo gồm có : “Chuyện hàng ngày” (film du jour) do ông Tam Lang phụ trách; ông Ðinh Hùng viết một truyện dài dã sử “Kỳ Nữ Gò Ôn Khâu” với bút hiệu Hoài Ðiệp Thứ Lang, một bài thơ châm biếm “Ðàn Ngang Cung” với bút hiệu Thần Ðăng và tranh hí họa chống cộng, Ông Như Phong, ngoài công việc thư ký tòa soạn, còn viết một truyện dài tên là “Một Triệu Ðồng”.
Khi nhóm chủ trương mở rộng, có thêm ba người : Nguyễn Họat, Bùi Xuân Uyên và họa sĩ Phạm Tăng. Ông Nguyễn Hoạt, ngoài việc giúp ông Như Phong về tòa soạn, còn viết một truyện dài hàng ngày, tên là “Trăng Nước Ðồng Nai”. Vì làm việc quá hăng say, ông Như Phong bị lao phổi. Ông phải nghỉ nhà để chữa bệnh. Việc tòa soạn do ông Nguyễn Hoạt tạm thay thế. Ðáng lẽ khi ông Như Phong nghỉ, truyện dài “Một Triệu Ðồng” cũng phải tạm ngưng, nhưng tòa soạn lại quyết định tiếp tục. Ông Nguyễn Họat yêu cầu mỗi người viết một đoạn để chờ ông Như Phong đi làm lại. Ông Ðinh Hùng là người đang viết nhiều bài nhất cũng phải viêt giúp. Nhưng rồi vẫn không thấy ông Như Phong trở lại làm việc, những người viết thay không chịu viết tiếp nữa. Bỗng một hôm ông Nguyễn Hoạt nói với tôi :
”Anh viết giúp cho một vài kỳ đi, Như Phong cũng sắp đi làm rồi,”
Tôi rất ngạc nhiên về đề nghị ấy vì chưa bao giờ tôi dám mơ tưởng đến việc viết truyện dài đăng báo. Thỉnh thoảng tôi chỉ làm một bài thơ loại cóc chết hoặc viết một truyện ngắn vớ vẩn. Bây giờ viết truyện dài, dù chỉ vài kỳ, tôi cũng nghĩ rằng tôi không đủ khả năng. Không những thế, tôi đâu có phải là nhân viên tòa báo, chỉ là một thư ký quèn của nhà in thôi. Tôi tìm lời từ chối khéo, viện cớ không hề đọc truyện “Một Triệu Ðồng” nên có biết gì đâu mà viết tiếp. Suy nghĩ một chút, ông Họat nói :
”Vậy thì hôm nay tôi viết, anh cố đọc lại từ đầu truyện, rồi mai anh viết giúp vài kỳ.”
 Tuy trong lòng rất ngại ngùng, nhưng lại không muốn làm ông buồn, tôi đành nhận lời. Thế là đêm hôm đó tôi phải thức khuya để đọc truyện “Một Triệu Ðồng” của Như Phong. Sáng hôm sau, tôi bắt đầu hì hoáy viết. Ðược trang nào tôi đều đưa ngay cho ông Nguyễn Hoạt xem trước. Ông gật gù tỏ vẻ đắc ý. Tôi viết được ba ngày thì ông Như Phong trở lại làm việc. Tôi mừng húm. Ông Như Phong viết thêm vài kỳ nữa thì chấm dứt.
Vì ông chấm dứt bất ngờ nên tòa soạn không kịp tìm truyện khác thay thế. Ông Nguyễn Hoạt đề nghị với ban chủ trương mời tôi viết trám chỗ trống đó. Ông nói với mọi người :
”Mấy kỳ anh Khôi viết thay anh Như Phong thấy cũng được lắm.”
Tòa soạn đồng ý và bảo tôi thử viết một đoạn xem sao. Ðêm hôm đó tôi thức trắng để cố gắng viết một chương cho truyện dài đầu tay. Ðó là truyện “Vực Thẳm”. Tôi lấy bút hiệu là Tạ Quang Diễm, vì đó là bút hiệu của tôi khi làm thơ. Ông Nguyễn Hoạt đọc xong truyền cho mấy ông trong ban chủ trương. Mọi người đêu đồng ý cho đăng truyện “Vực Thẳm”. Ông Vũ Khắc Khoan nói với tôi :
”Mày việc đ…gì phải lấy bút hiệu, cứ tên thật mà chơi cũng được.”
Ông Khoan là bạn học của mấy ông anh họ tôi ở Bưởi nên vẫn coi tôi như em. Thế là tôi trở thành một nhà văn viết feuilleton.
Nhưng tờ Tự Do không sông lâu, nội bộ lủng củng rồi…dẹp tiệm.
Tôi không hiểu truyện “Vực Thẳm” của tôi có ăn khách không, nhưng khi Tự Do đóng cửa, tôi được ông Hồ Anh, chủ nhiệm báo Ngôn Luận, mời viết truyện dài cho báo này. Sau này, khi ông xuất bản tờ tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong tôi cũng viêt một truyện dài.
Trở lại chuyện nhật báo Tự Do bị đóng cửa. Việc thứ nhất : Một hôm ông Tam Lang sai tôi đến một building ở đường Bà Huyện Thanh Quan để gặp một đại diện của nhóm Ngân hàng. Nhóm này có ý định lấy tên báo Tự Do để ra một tờ báo riêng cho nhóm họ. Ðiều kiên duy nhất của ông Tam Lang là nhóm Ngân Hàng dùng lại cả tòa soạn của Tự Do cũ. Nhưng nhóm này từ chối. Thế là việc cộng tác không thành.
Sau đó, nhóm Ngân Hàng xuất bản tờ nguyệt san Bách Khoa. Tờ báo này có rất nhiều uy tín trong giới văn học.
Việc thứ hai : Năm 1996, ông Như Phong sang Mỹ theo diện HO, lên Virginia chơi và ghé thăm tôi. Trong dịp này, tôi hỏi ông về chuyện lủng củng nội bộ của báo Tự Do. Ông cho biết thực sự không có lủng củng nội bộ. Sở dĩ tờ Tự Do bị đình bản vì lý do chính trị. Phủ Tổng thống thấy báo Tự do được dân Bắc di cư ủng hộ thì không vui, vì nhóm chủ trương và nhân viên tòa soạn không ai có đạo Thiên chúa, lại không có ai là người Trung. Thế rồi báo đình bản được ít lâu lại tái xuất hiện với chủ nhiệm và quản lý mới. Ðó là hai ông Phạm Việt Tuyền và Kiều Văn Lân. Hai ông này không những theo đạo Thiên chúa mà còn là nhân viên phủ Tổng thống. Ông Như Phong vẫn làm thư ký tòa soạn, ông Nguyễn Hoạt vẫn là một nhân viên tòa soạn. Ông còn viết thêm mục “Chuyện Hàng Ngày” với bút hiệu Hiếu Chân. Mục này được đổi tên là “Nói Hay Ðừng”. Ngoài Hiếu Chân còn hai người nữa cũng viết trong mục này, là nhà văn đường rừng Tchya Ðái Ðức Tuấn. Bút hiệu của ông trong “Nói Hay Ðừng” là Mai Nguyệt. Người thứ ba là Phạm Xuân Ninh, tức Hà Thượng Nhân, với bút hiệu Tiểu Nhã. Ông nói lái “Nói Hay Ðừng” thành “Nứng Hay Ðòi”. Mục này được độc giả rất hâm mộ vì lối viết sắc bén và châm biếm của các tác giả.
Một lần, Mai Nguyệt viết một bài đụng chạm tới ông Cao Văn Tường, chủ tịch quốc hội thời đó. Ông Tường đòi trừng phạt báo Tự Do. Mai Nguyệt đã không sợ, còn viết thêm một bài, gọi ông Cao Văn Tường là “Cao Tặc” (đọc lái là Cặc Tao). Câu chuyện tưởng sẽ nổ lớn, nhưng nhờ có sự dàn xếp khéo léo của bác sĩ Trần Kim Tuyến mà được êm thắm.
Cuối năm 1969, không nhớ chắc vào tháng nào (8 hay 9 ?) tôi vào nhà thương Saint Paul thăm nhà văn Thanh Nam. Ông bị thổ huyết vì lao phổi. Vừa thấy tôi, Thanh Nam nói ngay :
” Ðêm qua tao sợ quá !”
Tôi liền nghĩ tới ma quỷ vì tôi vẫn nghe đồn phòng nhà thương nào cũng có ma. Bệnh nhân chết trong các phòng nhà thương không phải ít. Nhiều linh hồn không siêu thoát được, cứ luẩn quẩn nơi mình chết. Nhưng Thanh Nam nói ngay :
” Ðêm qua, ông Tchya Ðái Ðức Tuấn chết trong nhà thương này. Tao tưởng tao cũng đi theo ổng ngay.”
Tôi phì cười trấn an ông :
”Mày làm sao mà chết được. Bệnh mày chỉ là bệnh ghẻ phổi, chích hết một série Streptomycine là khỏi ngay, lại tha hồ đi tán gái.”
Quả nhiên, chỉ ít lâu sau Thanh Nam được xuất viện, rồi sống cho đến ngày mất vì ung thư cuống họng ở Mỹ vào cuối năm 1984.
Trở lại báo Tự do. Bà vợ kế của ông Phạm Việt Tuyền là con gái Cụ Ðốc Giác, trước kia ở Hải Phòng. Cụ Ðốc Giác quê ở phủ Xuân Trường, Nam Ðịnh, có họ vói Trường Chinh Ðặng Xuân Khu. Vì thế, sau khi miền Nam bị cộng sản chiếm, gia đình ông Phạm Việt Tuyền đươc đi Pháp, định cư ở Strasbourg. Sau đó ông Tuyền bị tai biến mạch máu não, nằm liệt nhiều năm.
Nhắc đến báo Tụ Do, cả thời Bắc Kỳ di cư lẫn thời phủ tổng thống, ngươi ta không thể quên cái công rất lớn của ông Như Phong Lê Văn Tiến. Phải nói là “tuần chay nào ông cũng có nước mắt”. Ông luôn luôn hết lòng lo cho tờ báo. Trong cả hai giai đoạn ông đêu làm thư ký tòa soạn và viết truyện dài hàng ngày. Giai đoạn đàu ông viết “Một Triệu Ðồng”, sang giai đoạn sau, ông có truyện “Khói Sóng”. Trong truyện này ông kể lại hồi còn trẻ đi theo các bậc đàn anh Hoàng Ðạo Nguyễn Tường Long, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam…làm cách mạng, chống cộng sản ở chién khu Vĩnh Yên, Việt Trì.
Vào những ngày cuối cùng của cuộc đời, đã phải đeo dây oxy để thở vì bị ung thư phổi, ông vẫn nhờ tôi tìm lại truyện “Khói Sóng”. Một nhân viên trong thư viên Quốc Hội Mỹ cho biết một thư viện của Hạ Uy Di có đầy đủ báo Tụ Do, tức là truyện “Khói Sóng” không sót một kỳ. Ông mừng lắm, nhưng chưa kịp làm gì thì ông đã ra đi vĩnh viễn.

                                                                                             Tạ Quang Khôi
                                                                                      (3 – 2012)